CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

Một số điểm mới trong quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát theo quy định tại Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP

04/01/2019
Cỡ chữ:   Tương phản
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 tháo gỡ được nhiều khó khăn vướng mắc trong tố tụng hình sự, tạo hành lang pháp lý trong mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan...

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 tháo gỡ được nhiều khó khăn vướng mắc trong tố tụng hình sự, tạo hành lang pháp lý trong mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy vậy, vẫn còn nhiều quy định chưa rõ cần được hướng dẫn. Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 quy định về phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2015 thay thế Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP đã làm rõ hơn các quy định về điều tra, truy tố, mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra (CQĐT) và Viện kiểm sát (VKS), tạo thuận lợi cho hai cơ quan trong quá trình giải quyết án hình sự. Cùng với nhiều quy định mới của BLTTHS năm 2015, Thông tư liên tịch số 04/2018 có những điểm mới như sau:

- Thông tư liên tịch số 04/2018 ngoài quy định về việc thay đổi, hủy bỏ lệnh, quyết định của Phó Thủ trưởng CQĐT thì bổ sung quy định về việc thay đổi, hủy bỏ lệnh, quyết định của Thủ trưởng CQĐT tại Điều 5.

- Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự, nếu quyết định khởi tố vụ án hình sự của Thủ trưởng CQĐT không có căn cứ thì VKS ra quyết định hủy bỏ mà không cần yêu cầu CQĐT hủy bỏ (điểm c khoản 1 Điều 7).

 - Trường hợp xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can đối với người đang bị tạm giữ thì chậm nhất trước khi hết thời hạn tạm giữ hoặc gia hạn tạm giữ 24 giờ, CQĐT phải chuyển hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn cho VKS cùng cấp (khoản 3 Điều 10). (tại Thông tư liên tịch số 05/2005, thời hạn này là 12 giờ).

 -  Sau khi thực hiện việc bổ sung chứng cứ, tài liệu theo yêu cầu của VKS, CQĐT phải có văn bản tiếp tục đề nghị phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can kèm theo chứng cứ, tài liệu bổ sung (khoản 2 Điều 10).

 - Trong giai đoạn điều tra, trong trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn lệnh, quyết định của CQĐT hoặc trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật mà VKS đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục hoặc trường hợp để kiểm tra, bổ sung chứng cứ, tài liệu quyết định việc truy tố thì Kiểm sát viên (KSV) trực tiếp tiến hành hỏi cung, lấy lời khai, đối chất, thực nghiệm điều tra và các hoạt động điều tra khác theo quy định của BLTTHS và thông báo cho Điều tra viên (ĐTV) trước khi tiến hành. ĐTV có trách nhiệm phối hợp với KSV để thực hiện các hoạt động điều tra khi được yêu cầu. Trong giai đoạn truy tố, nếu VKS trực tiếp tiến hành các hoạt động điều tra nêu trên để quyết định việc truy tố hoặc để giải quyết yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án thì VKS thông báo cho CQĐT để phối hợp nếu thấy cần sự phối hợp của CQĐT (Điều 12).

  Đây là quy định thể hiện sự chủ động của VKS trong việc tiến hành các hoạt động điều tra. Đối với hoạt động thực nghiệm điều tra, quy định không bó hẹp VKS chỉ được yêu cầu CQĐT tiến hành thực nghiệm trong giai đoạn điều tra, ở giai đoạn truy tố thì chỉ thực nghiệm những tình huống điều tra đơn giản mà qua thực nghiệm tại chỗ có thể kết luận kiểm tra được chứng cứ. Tương tự đối với biện pháp điều tra đối chất, Thông tư liên tịch số 05/2005 quy định trong quá trình kiểm sát điều tra, nếu có mâu thuẫn trong lời khai của những người tham gia tố tụng thì KSV yêu cầu ĐTV tiến hành đối chất; KSV chỉ trực tiếp đối chất trong trường hợp có yêu cầu của CQĐT hoặc thấy việc đối chất của ĐTV chưa làm rõ được mâu thuẫn. Với quy định mới, KSV trực tiếp tiến hành đối chất trong những trường hợp như đã nêu ở trên.

  - Quyết định tạm giữ người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp được ra trước hoặc cùng với lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và trong thời hạn 12 giờ kể từ khi CQĐT giữ người hoặc nhận người bị giữ (chưa cần có quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp của VKS) (khoản 3 Điều 15).

  - Cách quy định việc sử dụng lệnh tạm giam của CQĐT trong Thông tư liên tịch số 04/2018 khác Thông tư liên tịch số 05/2005. Tuy nhiên, thời hạn tạm giam bị can không thay đổi. Theo đó, nếu thời hạn trong lệnh tạm giam của CQĐT còn nhưng không đủ để hoàn thành việc truy tố thì chậm nhất 05 ngày, VKS ra lệnh tạm giam mới, thời hạn tạm giam còn lại và thời hạn tạm giam mới không vượt quá thời hạn truy tố quy định tại khoản 1 Điều 240 BLTTHS năm 2015. (Thông tư liên tịch số 05/2005 quy định: Thời hạn tạm giam mới được tính theo ngày tạm giam cuối cùng ghi trong lịch tạm giam của CQĐT và không được quá thời hạn truy tố đối với từng tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 166 của BLTTHS năm 2003, trừ đi thời hạn đã tạm giam kể từ ngày Viện kiểm sát nhận hồ sơ vụ án) (Điều 18).

- Thông tư liên tịch số 04/2018 quy định về chuẩn bị kết thúc điều tra là chậm nhất 10 ngày đối với vụ án ít nghiêm trọng và nghiêm trọng, 15 ngày đối với vụ án rất nghiêm trọng, 20 ngày đối với vụ án đặc biệt nghiêm trọng trước khi kết thúc điều tra hoặc hết thời hạn điều tra, KSV và ĐTV phải phối hợp để đánh giá toàn bộ chứng cứ, tài liệu và các thủ tục tố tụng của vụ án (Điều 31).

- Việc đóng dấu bút lục theo quy định tại khoản 5 Điều 88 hoặc hồ sơ đề nghị VKS xét phê chuẩn lệnh, quyết định của CQĐT được thực hiện như sau: CQĐT đóng dấu bút lục vào góc trên bên phải, VKS đóng dấu bút lục của VKS vào góc dưới bên phải của từng trang tài liệu, biên bản. Không đánh số thứ tự do còn liên quan đến việc sắp xếp hồ sơ (điểm a,b khoản 1 Điều 35).

  - Việc đóng dấu bút lục khi kết thúc điều tra và trong giai đoạn truy tố được thực hiện như sau: CQĐT đóng dấu bút lục ở góc trên bên phải của từng trang tài liệu, đánh số thứ tự từ 01 cho đến hết. Biên bản, tài liệu do VKS thu thập trong giai đoạn truy tố được đóng dấu bút lục của VKS vào góc trên bên phải, đánh số thứ tự tiếp theo số bút lục trong hồ sơ vụ án do CQĐT chuyển đến (điểm a, b khoản 2 Điều 35).

                                                                               Trần Hương Giang, VKSND tỉnh Nghệ An

 

                                                            

                                                                     

 

 

 

Tìm kiếm