CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TỐI CAO

 

 

Số: 50/TB-VKSTC

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

 

 

Hà Nội, ngày 29 tháng 01 năm 2019

 

THÔNG BÁO

Kinh nghiệm và rút kinh nghiệm 06 tháng cuối năm về công tác kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật

 

Để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật, đặc biệt chú trọng chất lượng, hiệu quả đối với công tác kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Tiếp tục thực hiện Kế hoạch số 03/KH-VKSTC ngày 26/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác trọng tâm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao năm 2018, theo đó: Định kỳ 06 tháng ban hành thông báo rút kinh nghiệm về công tác kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định về vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Vụ 10) tổng hợp báo cáo kết quả công tác kháng nghị 6 tháng cuối năm của các đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây viết tắt là VKSND tỉnh, thành phố) thông báo kinh nghiệm rút kinh nghiệm để thực hiện tốt công tác kháng nghị, cụ thể như sau:

1. Tình hình vi phạm của Tòa án

Qua báo cáo của các Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, các VKSND tỉnh, thành phố thấy Viện kiểm sát các cấp trong quá trình thực hiện công tác kiểm sát 06 tháng cuối năm 2018 đã phát hiện được nhiều vi phạm. Các dạng vi phạm vẫn chủ yếu là: Xác định sai tư cách của đương sự; không tiến hành thu thập hoặc thu thập tài liệu, chứng cứ chưa đầy đủ; đánh giá chứng cứ không khách quan, toàn diện dẫn đến quyết định của bản án không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án, không thực hiện các thủ tục tống đạt, niêm yết tại nơi cư trú; giải quyết vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự hoặc không giải quyết hết các yêu cầu của đương sự ; không giám định thiệt hại để làm căn cứ bồi thường, việc áp dụng quy định của BLDS 2005 và 2015 không đúng theo điều khoản chuyển tiếp; vi phạm trong việc xác định đối tượng khởi kiện; vi phạm về đưa người liên quan tham gia tố tụng. Tòa án ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án nhưng không nêu rõ hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án, không tuyên đình chỉ đối với yêu cầu đương sự đã rút, không nêu hậu quả đình chỉ; Vi phạm về nội dung, vi phạm về việc áp dụng thiếu điều luật, vi phạm về việc tính án phí…

 Ngoài ra, vẫn còn nhiều các vi phạm khác như: Về thời hạn gửi thông báo thụ lý, gửi bản án, quyết định, vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử, viện dẫn điều luật áp dụng chưa chính xác...

Việc phát hiện vi phạm tập trung ở hầu hết các đơn vị như: Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Quảng Ngãi Đắc Lắc, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Hải Dương, Long An, Sóc Trăng...

Các vi phạm trên của Tòa án cơ bản đã được tổng hợp để kịp thời ban hành kháng nghị để xét lại bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.

2. Kết quả kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc dân sự và hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, phá sản và xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân (từ ngày 01/6/2018 đến 30/11/2018)

2.1. Kháng nghị phúc thẩm

Tổng hợp kết quả từ các báo cáo công tác kháng nghị phúc thẩm các bản án, quyết định vụ án hành chính, vụ việc dân sự và hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, phá sản và xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân của Viện kiểm sát nhân dân các cấp:

- Tổng số kháng nghị Viện kiểm sát đã ban hành theo thủ tục phúc thẩm: 817 kháng nghị (DS: 611; HC: 80; KDTM, LĐ: 119; PS: 02; PL09: 05), trong đó:

+ Số kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đã ban hành theo thủ tục phúc thẩm: 529 kháng nghị, chiếm 64,8% (DS: 415; HC: 39; KDTM, LĐ: 69; PS: 01; PL09: 05). Như vậy so với 06 tháng đầu năm 2018 thì số kháng nghị của VKS cùng cấp tăng 19 kháng nghị, bằng 3,7%.

 + Số kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp đã ban hành theo thủ tục phúc thẩm: 288 kháng nghị, chiếm 35,2% (DS: 196; HC: 41; KDTM, LĐ: 50; PS: 1; PL09: 0). Như vậy so với 06 tháng đầu năm 2018 thì số kháng nghị của VKS cấp trên trực tiếp giảm 116 kháng nghị, bằng 28,7%.

- Tổng số kháng nghị của Viện kiểm sát theo thủ tục phúc thẩm được chấp nhận: 525/728 kháng nghị đã được xét xử (đạt tỷ lệ 72,11%); Số kháng nghị đã được xét xử này bao gồm cả kháng nghị cũ, trong đó:

+ Số kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp theo thủ tục phúc thẩm được chấp nhận: 313/424 kháng nghị đã được xét xử (đạt tỷ lệ 73,82%).

+ Số kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp theo thủ tục phúc thẩm được chấp nhận: 212/304 kháng nghị đã được xét xử (đạt tỷ lệ 69,73%).

- Số kháng nghị của Viện kiểm sát được Hội đồng xét xử chấp nhận sửa án là 367/1436 bản án, quyết định của Tòa án bị Hội đồng xét xử sửa án (chiếm tỷ lệ 25,55%).

- Số kháng nghị của Viện kiểm sát được Hội đồng xét xử chấp nhận hủy án 137/620 bản án, quyết định của Tòa án bị Hội đồng xét xử hủy án (chiếm tỷ lệ 22,09%).

2.2. Kháng nghị giám đốc thẩm

- Tổng số kháng nghị Viện kiểm sát đã ban hành theo thủ tục giám đốc thẩm: 55 kháng nghị (3 Viện cấp cao: 52; Vụ 9: 03).

- Số kháng nghị giám đốc thẩm của Viện kiểm sát được Hội đồng xét xử chấp nhận: 46 kháng nghị/ 77 tổng số kháng nghị đã xét xử (đạt tỷ lệ 59,74%).

2.3. Kháng nghị tái thẩm: Không

3. Đánh giá chung về thực hiện quyền kháng nghị

3.1. Những ưu điểm

-  Nhìn chung 06 tháng cuối năm Viện kiểm sát các cấp đã chấp hành theo Chỉ thị số 10/CT-VKSTC ngày 06/4/2016 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm án dân sự, hành chính; Chỉ thị số 04/CT-VKSTC ngày 22/3/2018 về tăng cường các biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự và hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, phá sản và những việc khác theo quy định của pháp luật; Chỉ thị số 01/CT-VKSTC ngày 20/12/2017 về công tác năm 2018 của ngành Kiểm sát nhân dân, nhiều đơn vị đã cơ bản hoàn thành tốt các chỉ tiêu nghiệp vụ đề ra. Công tác kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án được chú trọng, kịp thời phát hiện vi phạm để thực hiện kháng nghị. Tăng cường chỉ đạo cấp huyện, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình giải quyết án, nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm, đảm bảo tỷ lệ chấp nhận kháng nghị ở mức cao (Hải Dương, Nghệ An,Quảng Bình, Hà Tĩnh, Đắk Lắk, Tây Ninh, Đồng Nai, Bình Phước, Tây Ninh, Bến Tre…). Các cán bộ, KSV làm công tác kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự đã có nhiều cố gắng, kịp thời tiếp cận và nắm bắt các quy định, văn bản pháp luật mới; chú trọng việc học tập, tích lũy kinh nghiệm nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đảm bảo hạn chế thấp nhất số lượng án bị hủy, sửa do trách nhiệm của KSV (Đà Nẵng, Bình Phước…).

- Lãnh đạo VKS các cấp đã có sự quan tâm, chỉ đạo sát sao đối với việc thực hiện công tác kiến nghị, kháng nghị; xác định được ý nghĩa của công tác kiến nghị, kháng nghị ; lựa chọn khâu đột phá để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo; bố trí, sắp xếp cán bộ phù hợp đáp ứng được yêu cầu công tác (Nghệ An, Đà Nẵng, Bình Phước, Tây Ninh…). Chú trọng nâng cao trách nhiệm của KSV trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngành (Quảng Ngãi, ĐăkNông, Hà Tĩnh…). Xác định việc phát hiện vi phạm để ban hành kháng nghị là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá kết quả công tác.

- Công tác thông báo rút kinh nghiệm được quan tâm, chú trọng; nội dung thông báo chỉ ra được những tồn tại, thiếu sót trong hoạt động của KSV trước và sau phiên tòa để giúp các cán bộ, kiểm sát viên nắm và nhận diện rõ hơn các dạng vi phạm của Tòa án nhằm rút kinh nghiệm chung, nâng cao chất lượng việc thực hiện kháng nghị.

- Viện kiểm sát các cấp đã phấn đấu thực hiện tốt theo các chỉ tiêu theo Nghị quyết của Quốc hội và những chỉ tiêu nghiệp vụ cơ bản của Viện trưởng VKSTC, tỷ lệ kháng nghị của VKS các cấp được chấp nhận cao (Quảng Nam, Quảng Ngãi, ĐăkNông…). Chú trọng cải tiến phương pháp kiểm sát các bản án, quyết định của Tòa án nhằm phát hiện vi phạm, chất lượng kháng nghị được nâng cao, tỷ lệ chấp nhận cao (Huế).

- Số kháng nghị của VKS so với bản án, quyết định bị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy, sửa có liên quan đến trách nhiệm của VKS chiếm tỉ lệ thấp (Quảng Nam).

- Công tác phối hợp giữa VKS các cấp trong công tác kháng nghị phúc thẩm tiếp tục được tăng cường, một số đơn vị VKS cấp huyện  đã chủ động, kịp thời báo cáo các vi phạm của Tòa án để xem xét kháng nghị đồng thời phòng nghiệp vụ cũng đã có hướng dẫn kịp thời cho VKS cấp huyện để đảm bảo thực hiện tốt chức năng, thẩm quyền.

3.2. Những tồn tại, hạn chế

- Tỷ lệ kháng nghị thấp so với 06 tháng đầu năm 2018, chưa đạt tỷ lệ theo nghị quyết Quốc hội đề ra.

- Vẫn còn có vi phạm của một số bản án, quyết định của Tòa án không được phát hiện kịp thời để kiến nghị, kháng nghị dẫn đến trường hợp án có hiệu lực nhưng khó thi hành (Vụ việc dân sự: Nghệ An, Quảng Ngãi, Quảng Bình, Bình Phước).

- Một số VKS cấp huyện mặc dù có phát hiện được vi phạm nhưng chưa kiên quyết trong việc kiến nghị, kháng nghị; số lượng kháng nghị phúc thẩm còn hạn chế, chưa phản ánh đúng tình hình vi phạm trong quá trình giải quyết các vụ, việc. Còn tình trạng án hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan của cấp sơ thẩm trong đó có trách nhiệm của Viện kiểm sát nhưng chưa kịp thời phát hiện vi phạm để thực hiện quyền kháng nghị hoặc báo cáo Viện kiểm sát cấp trên kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Do vậy, số lượng kháng nghị so với bản án, quyết định mà Tòa án cấp phúc thẩm xử sửa, hủy án chiếm tỷ lệ thấp, có những đơn vị tỷ lệ án sửa, hủy cao nhưng không kháng nghị được vụ nào, dẫn đến số lượng kháng nghị ít so với tỉ lệ án có kháng cáo, kháng nghị bị hủy, sửa; hiệu quả công tác chưa cao (Vụ việc dân sự: Nghệ An, Quảng Bình, ĐăkNông, Hà Tĩnh, Bình Định, Bình Dương; vụ án hành chính: TP Hồ Chí Minh, cấp cao; Vụ việc kinh doanh thương mại: Long An, Hải Phòng….).

- Đội ngũ Kiểm sát viên, Kiểm tra viên được phân công thực hiện nhiệm vụ công tác này còn thiếu, đa số chưa có kinh nghiệm và phải kiêm nhiệm nhiều công tác. Vẫn còn có Viện kiểm sát chưa bố trí đủ Kiểm sát viên để tham gia phiên tòa, phiên họp theo quy định của pháp luật. Một số Kiểm sát viên yếu về năng lực, trình độ nghiệp vụ dẫn đến việc nghiên cứu các vụ án chưa sâu, khi tham gia phiên tòa và kiểm sát bản án, quyết định thiếu chặt chẽ, chưa kịp thời phát hiện vi phạm của Tòa án để ban hành kháng nghị hoặc báo cáo Viện kiểm sát cấp có thẩm quyền kháng nghị.

- Việc Tòa án vi phạm thời hạn gửi bản án, quyết định cho Viện kiểm sát cùng cấp khá phổ biến ở các địa phương, đồng thời một số Viện kiểm sát cấp dưới gửi bản án, quyết định cho Viện kiểm sát cấp trên còn chậm nên ảnh hưởng đến việc phát hiện vi phạm và thực hiện quyền kháng nghị.

- Hiện nay, việc bố trí vị trí chỗ ngồi của Kiểm sát viên tại Tòa không đảm bảo an toàn cho Kiểm sát viên khi tham gia phiên tòa giải quyết các vụ án hành chính, dân sự, kinh doanh thương mại, lao động.

3.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế

- Các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực hành chính, kinh doanh thương mại, lao động ngày càng phức tạp. Trong khi đó hệ thống văn bản pháp luật liên quan trong công tác giải quyết các vụ án hành chính, kinh doanh thương mại, lao động nhiều, thường xuyên thay đổi, còn có những quy định chồng chéo, mẫu thuẫn, chậm ban hành văn bản dưới luật dẫn tới nhận thức và vận dụng không thống nhất.

- Các vụ án trái quan điểm ở các cấp thường là những vụ án có tính chất phức tạp được điều chỉnh bởi nhiều quy phạm pháp luật nội dung qua nhiều thời kỳ. Nhiều vụ án đương sự không hợp tác, cố tình che dấu địa chỉ và không cung cấp chứng cứ cho Tòa án dẫn đến việc thu thập, đánh giá chứng cứ ở cấp sơ thẩm gặp nhiều khó khăn.

-  Công tác gửi bản án, quyết định sơ thẩm của VKS cấp huyện lên VKS cấp tỉnh vẫn còn một số đơn vị thực hiện chưa tốt, gửi chậm, hết thời hạn kháng nghị của cấp tỉnh; Việc chuyển bản án, quyết định của Tòa án cho Viện kiểm sát còn chậm, nhất là đối với những vụ án phức tạp ảnh hưởng đến thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát; vẫn còn tình trạng Tòa án cấp quận, huyện không chuyển hồ sơ theo yêu cầu của VKS hoặc chuyển muộn dẫn đến việc VKS không thực hiện được kháng nghị.

- Thời hạn kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là quá ngắn nhất là đối với những trường hợp Viện kiểm sát không tham gia phiên tòa do Luật không quy định, Viện kiểm sát không đủ thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ. Mặt khác, việc chuyển hồ sơ của Tòa án cho Viện kiểm sát còn khó khăn như: Tòa án không chuyển hoặc chuyển hồ sơ muộn dẫn đến không đủ thời gian để VKS nghiên cứu, xem xét kháng nghị.

- Lực lượng cán bộ, Kiểm sát viên được phân công công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính, kinh doanh thương mại, lao động chưa đảm bảo về số lượng và chất lượng. Ở một số địa phương, vẫn còn tình trạng cán bộ, Kiểm sát viên thực hiện công tác này thường xuyên bị luân chuyển, không ổn định, nhiều Kiểm sát viên trẻ, thiếu kinh nghiệm, thiếu kỹ năng kiểm sát.

Một số ít cán bộ, Kiểm sát viên chưa thực sự tích cực học tập, đầu tư thời gian để nghiên cứu để tích lũy kinh nghiệm. Kiểm sát viên làm công tác này ở các VKS cấp huyện, quận chưa chủ động trong việc nghiên cứu hồ sơ, chưa thực hiện đầy đủ quyền yêu cầu của Kiểm sát viên được quy định trong Luật, dẫn đến không phát hiện được những vi phạm của Tòa án để kịp thời kháng nghị hoặc báo cáo kháng nghị dẫn đến số lượng kháng nghị của cấp quận, huyện còn hạn chế.

3.4. Những nội dung cần rút kinh nghiệm

3.4.1. Đối với công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành

- Phải có sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Lãnh đạo Viện đối với công tác này. Hằng năm, Lãnh đạo VKS các cấp phải xác định được các nội dung trọng tâm, đề ra các giải pháp cụ thể, đồng thời mỗi cấp kiểm sát cần chọn điểm còn yếu, chưa tốt làm khâu đột phá để để thực hiện có hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng công tác.

- Phân công Lãnh đạo Viện phụ trách và công chức phòng nghiệp vụ theo dõi cấp huyện gắn trách nhiệm với chất lượng, hiệu quả của công tác của đơn vị được phân công phụ trách và theo dõi.

- Viện kiểm sát cần tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn, thông báo rút kinh nghiệm.

- Chủ động trong công tác tự đào tạo: Có thể tự mình hoặc phối hợp với các VKS cùng cấp trong khu vực tổ chức các buổi trao đổi thảo luận thông qua các chuyên đề hoặc các vụ án.

- Tăng cường công tác phối hợp giữa Viện kiểm sát và Tòa án để tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm

3.4.2. Đối với công tác tổ chức bộ máy và sử dụng nguồn nhân lực

- Đối với các Viện kiểm sát địa phương cần có phòng nghiệp vụ chuyên sâu.

- Mỗi cán bộ, Kiểm sát viên làm khâu công tác này cần nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò, chức năng của Viện kiểm sát khi thực hiện nhiệm vụ được giao.

- Nâng cao trách nhiệm của Kiểm sát viên được phân công thụ lý giải quyết án, nghiên cứu hồ sơ. Cần kịp thời cập nhật các văn bản pháp luật, tham khảo,vận dụng đúng các văn bản pháp luật, các thông báo rút kinh nghiệm.

- Cần sắp xếp, bố trí công chức đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng, đặc biệt chú trọng đến năng lực sở trường công tác của công chức, đảm bảo có các độ tuổi để kế thừa; cấp huyện ít nhất phải có 01 Kiểm sát viên chuyên trách.

- Công chức phải thường xuyên được tham gia các lớp bồi dưỡng, tập huấn, hội nghị, hội thảo... và tự học hỏi để nâng cao trình độ.

3.4.3. Đối với công tác chuyên môn, nghiệp vụ

- Công chức phải thường xuyên cập nhật các quy định mới về nội dung trong lĩnh vực quả lý nhà nước, các hướng dẫn của ngành, của Tòa án và các ngành khác có liên quan trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, phá sản, hành chính, áp dụng các biện pháp hành chính tại tòa.

- Việc nghiên cứu, lập hồ sơ kiểm sát cần phải được thực hiện theo đúng qui định, hướng dẫn của Ngành.

- Kết hợp chặt chẽ kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa, phiên họp; tích cực kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án kịp thời phát hiện vi phạm để thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị hoặc báo cáo Viện kiểm sát cấp có thẩm quyền để kháng nghị, hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp án bị hủy, sửa có trách nhiệm của Kiểm sát viên.

- Cần tổng hợp các vi phạm của Tòa án, kịp thời ban hành thông báo rút kinh nghiệm đối với những bản án, quyết định bị hủy, sửa về những vi phạm tố tụng, vi phạm trong việc đánh giá chứng cứ, tài liệu; những vi phạm về việc thu thập tài liệu, chứng cứ trong các vụ án; đánh giá chất lượng kháng nghị để kịp thời khắc phục nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc.

- Tích cực trả lời thỉnh thị và giải đáp các vướng mắc về nghiệp vụ cũng như về áp dụng pháp luật đối với VKS cấp dưới.

- Đối với các quyết định sơ thẩm của Tòa án cần chú ý căn cứ để Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ đồng thời gắn với việc theo dõi việc phục hồi giải quyết vụ án không để việc tòa án kéo dài thời hạn tạm đình chỉ mà VKS cùng cấp bỏ quên kiểm sát, đình chỉ có bảo đảm đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự hay không; đặc biệt là việc thỏa thuận của các đương sự đã phù hợp với quy định của pháp luật chưa?có thể gây thiệt hại đến quyền lợi của người thứ ba hay không? …

- Việc lập quyết định kháng nghị phải đúng mẫu quy định; lập luận phải vững chắc, có đầy đủ căn cứ pháp luật; đối chiếu căn cứ pháp luật cho phù hợp. Nội dung kháng nghị phải nêu cho được vi phạm pháp luật cụ thể của Tòa án trong bản án, quyết định, nêu vi phạm về tố tụng hay luật nội dung…

4. Những phương pháp, kinh nghiệm

4.1. Phương pháp, kinh nghiệm phát hiện vi phạm

- Để phát hiện vi phạm của Tòa án cần xem xét kỹ hồ sơ do Tòa án lập, chuyển cho Viện kiểm sát, trong đó chú trọng đến các quyết định tố tụng, các tài liệu chứng cứ do Tòa án thu thập để giải quyết vụ, việc. Cụ thể:

- Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện và thông báo thụ lý:  Kiểm sát viên được phân công cần kiểm sát chặt chẽ ngay từ khâu kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện. Khi kiểm sát thông báo thụ lý vụ án cần xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, đối tượng khởi kiện, tư cách của người tham gia tố tụng, đọc kỹ đơn khởi kiện và đối chiếu với nội dung quy định của Luật; Chú ý đối tượng khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết, người bị kiện (bị đơn) và những vấn đề cụ thể người khởi kiện (nguyên đơn) yêu cầu Tòa án giải quyết. Đây là công việc có ý nghĩa hết sức quan trọng giúp Kiểm sát viên tiếp cận nghiên cứu hồ sơ vụ án cũng như toàn bộ quá trình kiểm sát việc giải quyết vụ án được thuận lợi. Trong thực tế thời gian qua có nhiều đơn khởi kiện vụ án hành chính liên quan đến lĩnh vực quản lý đất đai viết không đầy đủ hoặc viết sai về người bị kiện, đối tượng khởi kiện, các yêu cầu đề nghị Tòa án giải quyết nhưng Tòa án vẫn thụ lý. Trong thông báo thụ lý vụ án cũng viết sai hoặc không đúng, không đầy đủ về người bị kiện, về những vấn đề cụ thể người khởi kiện (nguyên đơn), yêu cầu Tòa án giải quyết…

Từ việc xác định sai các nội dung như đã nói ở trên dẫn đến việc giải quyết vụ án của Tòa án vi phạm pháp luật về tố tụng như Tòa án không yêu cầu người khởi kiện (nguyên đơn) sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện nhưng vẫn giải quyết hay vẫn trả lại đơn khởi kiện; bản án tuyên sự việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, nhận định đối tượng khởi kiện trong đơn không thuộc đối tượng khởi kiện, xác định sai đối tượng khởi kiện; xác định sai người bị kiện (bị đơn); yêu cầu đề nghị Tòa án giải quyết nhiều vấn đề nhưng Tòa án thụ lý và giải quyết không đầy đủ các yêu cầu của người khởi kiện (nguyên đơn); không đưa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng hoặc xác định sai người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vv...Khi gặp các trường hợp trên đây, tùy theo tính chất, mức độ và giai đoạn tố tụng mà Viện kiểm sát thực hiện các quyền kháng nghị hay chỉ thực hiện yêu cầu, kiến nghị, theo quy định của pháp luật.

- Nghiên cứu hồ sơ vụ án:

Đối với các vụ án hành chính: Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án phải chú ý thời điểm xảy ra vụ việc; thời hiệu khởi kiện các điều kiện khởi kiện, việc tống đạt các văn bản tố tụng, đối thoại, tiếp cận chứng cứ, thời hạn chuẩn bị xét xử nghiên cứu kỹ các chứng cứ do người khởi kiện, người bị kiện cung cấp, Tòa án xác minh thu thập và các tài liệu khác có liên quan; xem xét tính hợp pháp của các chứng cứ; xem xét ở thời điểm giải quyết vụ án văn bản quy phạm pháp luật để làm căn cứ có còn hiệu lực thi hành hay không…từ đó mới biết người bị kiện khi ban hành quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính đúng hay sai.

Xác định đối tượng bị khởi kiện vụ án hành chính là quyết định hành chính hay hành vi hành chính. Nếu là quyết định hành chính thì được thể hiện dưới hình thức nào, có thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính hay không. Nếu là hành vi hành chính thực hiện hay không thực hiện nhiệm vụ, công vụ nào, ai là người thực hiện hay không thực hiện, là cơ quan, tổ chức hay trong cơ quan tổ chức đó. Nghiên cứu chi tiết việc nhận định, quyết định của bản án, quyết định theo thứ tự về tố tụng đến nội dung của bản án, quyết định theo phương pháp nhận diện các dạng vi phạm. Như dạng vi phạm về tố tụng là xác định tư cách người tham gia tố tụng là cá nhân Chủ tịch UBND hay UBND, ai là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan để đưa vào tham gia tố tụng; về nội dung nhận định, căn cứ pháp luật của Tòa án áp dụng để quyết định chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu khởi kiện hoặc những căn cứ lý do để ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án. Sau đó kiểm tra đối chiếu với các quy định của pháp luật, tình tiết, căn cứ chứng minh trong vụ án để xác định có vi phạm hay không có vi phạm, nếu vi phạm thì tính chất mức độ ra sao.

Sau khi xác định bản án, quyết định có vi phạm hoặc có dấu hiệu vi phạm, để củng cố và xác định vi phạm chính xác, vững chắc thì tùy từng trường hợp yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ chính, kết hợp với hồ sơ kiểm sát trước đó để nghiên cứu đối chiếu xác định vi phạm. Cần thiết thì trực tiếp tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ thêm để củng cố căn cứ khi xác định vi phạm. Trước khi ban hành kháng nghị cần kiểm tra, đánh giá lại toàn bộ vi phạm một cách thận trọng, khách quan về tính chất mức độ của vi phạm, căn cứ pháp luật áp dụng, tài liệu chứng cứ chứng minh, các tình huống có thể xảy ra nhưng vẫn bảo vệ được kháng nghị đảm bảo tính có căn cứ, có sức thuyết phục.

Đối với án kinh doanh thương mại, lao động: Đối chiếu với từng loại án, từng vụ việc cụ thể xác định vi phạm. Đặc biệt chú ý trong giải quyết án kinh doanh thương mại về hợp đồng vô hiệu, giá trị pháp lý của hợp đồng thế chấp tài sản, quyết định của bản án về xử lý tài sản thế chấp, việc áp dụng lãi suất…

- Kiểm sát phần thủ tục, hỏi tại phiên tòa

Kiểm sát viên chú ý hỏi các đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng…đây là cơ hội để Kiểm sát viên làm rõ phần nội dung vụ án mà theo hồ sơ còn chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn. Hỏi để làm rõ nội dung vụ án có ý nghĩa rất quan trọng khi Tòa án tuyên không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án, là cơ sở cho việc báo cáo Lãnh đạo Viện kháng nghị theo quy định của pháp luật.

- Kiểm sát bản án, quyết định: Để nâng cao chất lượng kiểm sát bản án, quyết định, Kiểm sát viên làm công tác này ngoài năng lực, trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ còn phải say mê với công việc được giao, có ý thức trách nhiệm, chịu khó tìm tòi, nghiên cứu học hỏi các quy định của pháp luật có liên quan đến công tác kiểm sát; đọc và xem xét kỹ bản án, quyết định, khi phát hiện có vi phạm phải được ghi chép ngay, tổng hợp theo từng nhóm vấn đề về thủ tục tố tụng, về áp dụng pháp luật, về chứng minh và thu thập chứng cứ, về kết luận trong bản án, quyết định có phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án hay không.

 Nhiều vụ án trong đó cần vận dụng nhiều văn bản pháp luật như: Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết, Nghị định, Thông tư, Quyết định... Đối chiếu với các quy định của pháp luật mà Tòa án đã ghi trong bản án, quyết định để xem xét việc áp dụng pháp luật của Tòa án đã đúng hay chưa, điều khoản nào đúng, điều khoản nào chưa đúng, điều luật nào Tòa án chưa áp dụng để giải quyết vụ án. Trong thực tế giải quyết án hành chính liên quan đến quản lý đất đai đã có những bản án không căn cứ Luật tố tụng hành chính mà căn cứ Bộ luật tố tụng dân sự để giải quyết hoặc chỉ căn cứ Luật tố tụng hành chính mà không căn cứ vào văn bản quy phạm pháp luật nào về mặt nội dung nhưng vẫn tuyên án chấp nhận phần này, không chấp nhận phần khác của đơn khởi kiện…

 Khi áp dụng pháp luật phải xem văn bản quy phạm pháp luật có còn hiệu lực thi hành hay đã hết hiệu lực thi hành; đã được sửa đổi, bổ sung, đã có hiệu lực thi hành hay chưa. Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn.

Nếu chỉ đọc bản án, quyết định thì rất khó phát hiện vi phạm, vì vậy phải kết hợp với việc nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án để xem xét tính hợp pháp hay không của đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính, đối chiếu giữa nhận định của bản án với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án để xem bản án tuyên có căn cứ và hợp pháp hay không vv…

- Kiểm sát viên cần phải nắm chắc các quy định của pháp luật, kiểm sát chặt chẽ về trình tự, thủ tục tố tụng, thời hạn chuẩn bị xét xử, nghiên cứu kỹ toàn bộ hồ sơ vụ án, lập hồ sơ kiểm sát theo đúng quy định của ngành, nắm chắc nội dung vụ án, phân tích tổng hợp chứng cứ. Quá trình nghiên cứu bản án, quyết định cần nắm rõ những nội dung mà đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, đã nộp án phí phản tố, tiền tạm ứng án phí đối với yêu cầu độc lập chưa, từ đó đối chiếu với nội dung phần quyết định của bản án để đối chiếu với nội dung yêu cầu của đương sự.

- Kiểm sát viên cần nghiên cứu nội dung của bản án, xem xét đánh giá một cách khách quan, toàn diện toàn bộ nội dung yêu cầu của nguyên đơn, ý kiến của bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, yêu cầu phản tố (nếu có) và những tài liệu, chứng cứ Tòa án đã thu thập, đương sự cung cấp, nội dung các văn bản trả lời của các cơ quan chức năng để xác định sự thật khách quan của vụ án. Qua đó xem xét phần nhận định của bản án có phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án không, nội dung quyết định của bản án có phù hợp với quy định của pháp luật không, việc tuyên án phí, lệ phí và quyền kháng cáo, hậu quả của việc đình chỉ, tính án phí cần đối chiếu với quy định của pháp luật về án phí, lệ phí tòa án.

Đối với các quyết định công nhận sự thỏa thuận, khi kiểm sát cần chú ý nội dung thỏa thuận của đương sự, cần đối chiếu với quy định của pháp luật. Đồng thời việc thỏa thuận của đương sự không làm ảnh hưởng đến lợi ích nhà nước, tập thể và người thứ 3.

4.2. Phương pháp, kinh nghiệm tích lũy, lưu giữ tài liệu vi phạm

Quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án; các cán bộ, KSV cần thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các quy định theo hướng dẫn về lập hồ sơ kiểm sát và Quy chế công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hành chính. Nghiên cứ kỹ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đối chiếu với quy định pháp luật về cả nội dung và tố tụng để phát hiện vi phạm.

- Khi tiếp nhận bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm gửi đến cần đóng dấu công văn đến và lưu giữ bản án, quyết định làm căn cứ xác định về thời hạn gửi bản án, quyết định dẫn đến hết thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát nên không thực hiện được quyền kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát.

- Thực hiện kiểm sát chặt chẽ phiếu kiểm sát của VKS huyện gửi, cập nhật vi phạm. Những vi phạm trong bản án, quyết định (nếu có) cần phải được ghi vào “phiếu kiểm sát bản án, quyết định...” theo mẫu kèm theo bản án, quyết định đó. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà cán bộ, KSV báo cáo lãnh đạo Viện kiến nghị hoặc kháng nghị.

- Photo các thông báo rút kinh nghiệm của cấp trên để lưu trữ, làm tài liệu nghiên cứu học tập phục vụ cho việc giải quyết vụ án tương tự, hạn chế án hủy, sửa bị lặp lại.

- Cập nhập các án lệ do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành để rút kinh nghiệm trong các vụ án tương tự xảy ra.

4.3. Phương pháp, kinh nghiệm thu thập tài liệu, chứng cứ để thực hiện quyền kháng nghị

- VKS các cấp cần thực hiện nghiêm túc việc chuyển bản án, quyết định kịp thời cho VKS trên để kịp thời kiểm sát theo quy định của pháp luật.

- Mỗi loại tranh chấp có những đặc điểm khác nhau vì vậy cần phải có phương pháp nghiên cứu, xem xét, đánh giá và thu thập chứng cứ và căn cứ áp dụng pháp luật sao cho phù hợp với từng loại tranh chấp, từng loại yêu cầu khởi kiện. Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ để tham gia phiên tòa và qua kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án mà phát hiện có vi phạm, ngoài việc yêu cầu Tòa án xác minh thu thập chứng cứ hoặc Viện kiểm sát tự mình xác minh, thu thập chứng cứ để đảm bảo cho việc thực hiện quyền kháng nghị bằng việc yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, chứng cứ. Trường hợp cần thiết có thể mời đương sự lên làm việc trực tiếp tại trụ sở Viện kiểm sát để thu thập tài liệu, chứng cứ.

 Việc thu thập chứng cứ để thực hiện quyền kháng nghị của Viện kiểm sát thực hiện theo quy định của Luật tố tụng hành chính và Bộ luật tố tụng dân sự từ đó phát hiện các vi phạm, đề xuất lãnh đạo Viện kháng nghị.

4.4. Phương pháp, kinh nghiệm xây dựng Quyết định kháng nghị

 - Để tham mưu cho lãnh đạo đơn vị xây dựng một quyết định kháng nghị phúc thẩm đảm bảo chất lượng, đúng pháp luật thì việc nắm vững các quy định về thẩm quyền của VKS trong các văn bản pháp luật là rất quan trọng. Đồng thời cần nắm chắc pháp luật về nội dung để vận dụng pháp luật cho chính xác Trường hợp VKS cấp trên thực hiện kháng nghị thì cần trao đổi với VKS cấp dưới đã tham gia kiểm sát giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm để nắm thêm thông tin chính xác vi phạm của Tòa án, làm cơ sở vững chắc cho việc kháng nghị.

- Hình thức bản kháng nghị cần thực hiện theo đúng mẫu quy định, nội dung cần cô đọng, đầy đủ, viện dẫn căn cứ pháp luật chính xác, phân tích rõ và đầy đủ các vi phạm của bản án, quyết định sơ thẩm.

- Đối với các trường hợp căn cứ kháng nghị còn yếu cần chủ động trao đổi, thỉnh thị đường lối để đảm bảo cho chất lượng kháng nghị được Tòa án chấp nhận.

4.5. Kinh nghiệm đưa ra tài liệu chứng cứ, lập luận để bảo vệ kháng nghị của Viện kiểm sát tại phiên tòa

- Xác định cụ thể những hoạt động cần thiết đối với từng trường hợp án có kháng nghị của VKS hoặc vừa có kháng cáo, kháng nghị... để đưa ra căn cứ xác đáng bảo vệ. Cần phải sắp xếp, công bố các chứng cứ, lập luận đối với các chứng cứ đó làm căn cứ cho kháng nghị của Viện kiểm sát, chỉ ra cái sai, cái thiếu trong bản án của Tòa án, trên cơ sở đó phân tích các chứng cứ mà Tòa án chưa xem xét hoặc Viện kiểm sát thu thập được.

Tại phiên tòa, khi Kiểm sát viên trình bày nội dung kháng nghị cần phải nêu rõ căn cứ của việc kháng nghị và các tài liệu, chứng cứ là căn cứ xác định vi phạm để bảo vệ kháng nghị. Trong trường hợp cần thiết Kiểm sát viên yêu cầu Hội đồng xét xử cho nghe băng, đĩa ghi âm, ghi hình tại phiên tòa, phiên họp theo quy định …

4.6. Những kinh nghiệm khác

- Do tính chất đa dạng, phức tạp khi giải quyết vụ án hành chính, dân sự, kinh doanh thương mại, lao động thường liên quan đến nhiều văn bản pháp luật nên định kỳ Viện kiểm sát cấp trên tập hợp, sao gửi các Quyết định kháng nghị, Thông báo rút kinh nghiệm, án lệ… để thuận tiện cho việc tra cứu, vận dụng.

- Kiểm sát viên, Kiểm tra viên cần có Sổ tay theo dõi, phát hiện, tập hợp vi phạm, ghi rõ nội dung vi phạm, căn cứ xác định vi phạm để chủ động nghiên cứu, tích lũy kiến thức và tham khảo khi cần.

- Viện kiểm sát các cấp cần thực hiện tốt công tác phối hợp với Tòa án cùng cấp trong việc tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm nhằm nâng cao kỹ năng tham gia phiên tòa của Kiểm sát viên, kỹ năng phát hiện vi phạm trong từng loại tranh chấp để kịp thời kháng nghị, kiến nghị Tòa án khắc phục vi phạm.

Đồng thời thực hiện tốt công tác phối hợp giữa Viện kiểm sát các cấp nhất là trong công tác kháng nghị. Viện kiểm sát cấp dưới cần tranh thủ, xin ý kiến chỉ đạo về đường lối giải quyết vụ án của Viện kiểm sát cấp trên nhất là đối với những vụ án phức tạp, có nhiều quan điểm trái ngược nhau.

5. Một số giải pháp, kiến nghị

- Đối với Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát các tỉnh, thành phố quán triệt thực hiện Chỉ thị 01/CT-VKSTC ngày 28/12/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác của ngành Kiểm sát năm 2019, tiếp tục xác định “công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật là một trong những nhiệm vụ trọng tâm”;

- Đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tiếp tục chỉ đạo, kiểm tra Viện kiểm sát các cấp bảo đảm việc tổ chức bộ máy và sử dụng nguồn nhân lực theo hướng chuyên sâu; bố trí Kiểm sát viên đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng, có tính ổn định lâu dài nhằm nâng cao chất lượng cán bộ, Kiểm sát viên của khâu công tác này; Trên cơ sở tập hợp những vi phạm của các đơn vị nghiệp vụ để kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, nhất là đối với vi phạm về việc gửi bản án, quyết định của Tòa án các cấp để Viện kiểm sát thực hiện tốt công tác kiểm sát bản án, quyết định kịp thời phát hiện vi phạm và có đủ thời gian thực hiện công tác kháng nghị.

 Chỉ đạo Viện kiểm sát các cấp xây dựng phần mềm để triển khai số hóa hồ sơ vụ án phục vụ kiểm sát các cấp tham gia phiên tòa, phiên họp; trang bị và sử dụng máy ghi âm, ghi hình tại các phiên tòa, phiên họp nhằm phát hiện vi phạm của Tòa án tại phiên tòa, phiên họp để Viện kiểm sát các cấp thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị.

- Đề nghị Viện trưởng VKSND các cấp tổ chức Hội nghị sơ kết 03 năm thi hành Luật tố tụng hành chính năm 2015 mời địa biểu là lãnh đạo cơ quan tư pháp; chủ tịch UBND cùng cấp tham dự hội nghị về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi kiểm sát giải quyết vụ án hành chính và rút kinh nghiệm trong giải quyết các vụ án khiếu kiện đề bù giải phóng mặt bằng, tái định cư.

Trên đây là Thông báo rút kinh nghiệm về công tác kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các bản án, quyết định giải quyết các vụ án hành chính, vụ, việc dân sự, kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật. Viện kiểm sát nhân dân tối cao thông báo đến Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, đơn vị để liên hệ tự rút kinh nghiệm cho công tác này trong thời gian tới đạt kết quả tốt hơn.

 

Nơi nhận:

- Đ/c Viện trưởng VKSNDTC (để báo cáo);

- Đ/c Trần Công Phàn - PVT VKSNDTC (để báo cáo);

- Vụ 9 VKSNDTC (để phối hợp);

- VKSND các tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ;

- Các VKSND cấp cao;

- Văn phòng VKSNDTC (P. Tổng hợp);

- Lãnh đạo, công chức Vụ 10;

- Lưu: Vụ 10.

 

TL. VIỆN TRƯỞNG

VỤ TRƯỞNG VỤ KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH, VỤ VIỆC KINH DOANH THƯƠNG MẠI, LAO ĐỘNG VÀ NHỮNG VIỆC KHÁC THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT

 

 

(Đã ký)

 

Phương Hữu Oanh

 

 

TÌM KIẾM