CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

Thông báo rút kinh nghiệm một số vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quý 3 năm 2018

05/11/2018
Cỡ chữ:   Tương phản
Ngày 24/10/2018, VKSND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh ra Thông báo số 30/TB-VKS-DS tổng hợp tình hình, kết quả giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình trong quý 3/2018 bị TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh sửa và hủy án để các VKSND tỉnh, thành phố nghiên cứu rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động tư pháp trong thời gian tới.

Ngày 24/10/2018, VKSND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh ra Thông báo số 30/TB-VKS-DS tổng hợp tình hình, kết quả giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình trong quý 3/2018 bị TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh sửa và hủy án để các VKSND tỉnh, thành phố nghiên cứu rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động tư pháp trong thời gian tới.

Các vụ án bị hủy toàn bộ bản án

*Vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn ông Nguyễn Văn X. với bị đơn ông Huỳnh Trung V.

Nội dung vụ án: Năm 1993, ông X. nhận chuyển nhượng tài sản của UBND huyện Trần Văn Thời, tỉnh MH (nay tỉnh CM) gồm nhà kho gắn liền với phần đất có diện tích 961m2 thuộc Khóm 1, thị trấn Trần Văn Thời, tỉnh CM. Sau đó, ông chuyển tài sản trên sang Doanh nghiệp tư nhân TP đứng tên đăng ký quyền sử dụng đất diện tích 961m2 (Doanh nghiệp tư nhân TP thuộc tài sản của ông X. ). Năm 1996, ông V. chiếm dụng một phần trong diện tích đất trên bằng 77,7m2 cất nhà ở. Nay, ông X.  khởi kiện yêu cầu ông V. di dời nhà, trả đất chiếm dụng lại cho Doanh nghiệp tư nhân TP 43.200.000 đồng tiền bồi hoàn giải tỏa đất tranh chấp Nhà nước thanh toán cho ông V. Bị đơn ông Huỳnh Trung V. không đồng ý và cho rằng trước năm 1993, ông được Công ty thương nghiệp hàng xuất khẩu huyện TVT bán 4 căn nhà thuộc phần nhà kho của xí nghiệp Sấy chuối trực thuộc Công ty. Do phần đất ông X. mua có lối đi chính ra sông Ông Đốc bị cản trở bởi 2 căn nhà ông mua của xí nghiệp Sấy chuối, qua thương lượng, ông đã chuyển nhượng cho ông X. 2 căn là lối đi; 2 căn còn lại ông quản lý, sử dụng cho đến nay.

Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2016/DS-ST ngày 30/9/2016 của TAND tỉnh CM quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Doanh nghiệp tư nhân TP, buộc ông V., bà Nh. tháo rỡ, di dời nhà vật kiến trúc khác được cất trên phần đất tiếp giáp sông Ông Đốc thuộc đất liền kề trong quyền sử dụng đất của Doanh nghiệp tư nhân TP, trả lại quyền ưu tiên quản lý, khai thác đất liền kề cho Doanh nghiệp tư nhân TP có diện tích thực tế bằng 44,6m2, bác yêu cầu của Doanh nghiệp tư nhân TP đòi quyền quản lý, sử dụng đất bằng 31,1m2 và buộc ông V. , bà Nh. phải hoàn trả cho Doanh nghiệp tư nhân TP tiền bồi hoàn giá trị quyền sử dụng đất bằng 43.200.000 đồng, không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Huỳnh Trung V. về việc đòi quyền ưu tiên được mua quyền sử dụng đất có diện tích 43,5m2.

Xét thấy, ngày 20/4/1993, ông V. được mua bốn căn nhà chiều ngang 12,5m2. Sau đó, ông V. nhượng lại cho ông X. 2 căn, còn lại 2 căn có chiều ngang 6,2m, dài 11m ông sử dụng đến nay. Ngày 16/8/1993, UBND huyện TVT ban hành Quyết định 377 giao cho ông X. là người mua nhà kho của xí nghiệp Sấy chuối để sản xuất nước đá được sử dụng diện tích đất 961m2 (gồm 2 thửa đất: 1 thửa phía trên lộ của diện tích 747,6m2, 1 thửa cặp bờ sông có diện tích 213,6m2). Ngày 18/8/1993, Phòng Công nghiệp - Xây dựng - Giao thông huyện TVT lập biên bản xác định thu tiền sử dụng đất theo Quyết định 377 là 747m2 và được UBND huyện TVT chấp thuận. Như vậy, diện tích đất ông X. nộp tiền và được quyền sử dụng đất theo chấp thuận của UBND huyện TVT là 747m2, ít hơn so với Quyết định 377 là 213,6m2. Năm 2009, UBND huyện TVT thực hiện dự án xây dựng đường nội đô thị trấn, Hội đồng bồi thường, giải tỏa bồi thường cho ông V. số tiền 71.735.710 đồng, trong đó, đất 21m2 bằng 43.200.000 đồng (tờ bản đồ số 8, thửa đất số 45), nhà 28.535.710 đồng. Ông X. cũng được bồi thường 261,1m2 trong diện tích 747,6m2 (thửa số 23 và thửa số 82 tờ bản đồ số 8). Tòa án cấp sơ thẩm xác định diện tích đất của ông V. bị giải tỏa là của ông X. và buộc ông V. trả lại tiền đền bù là chưa có căn cứ.

Vấn đề cần rút kinh nghiệm: Khi xem xét giải quyết tranh chấp, cần đánh giá, xem xét đầy đủ các chứng cứ do đương sự cung cấp và yêu cầu các cơ quan có liên quan cung cấp chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự để giải quyết toàn diện vụ án. 

*Vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn ông Trần Văn H. với bị đơn Tịnh xá NT

Nội dung vụ án: Nguồn gốc 239m2 đất tranh chấp thuộc thửa 769, tờ bản đồ số 6, tọa lạc tại Khóm 2, phường 8, thành phố TV, tỉnh TV là của ông Trần Văn H. để lại với mục đích là để chôn cất những người trong thân tộc. Trước năm 1975, trong thân tộc của ông H. có 3 người cùng đi tu tại Tịnh xá NT sau đó qua đời và cũng trong phần đất của Tịnh xá NT có 9 ngôi mộ của thân tộc ông H. Do có những ngôi mộ trong Tịnh xá nên ông H. mới cho phép Tịnh xá xây dựng trên phần đất này. Khi xây chùa, phía gia đình ông H. có nói chỉ cho xây chùa chứ không cho đứt phần đất trên. Về phía Tịnh xá, khi có đất đã tự ý kê khai làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 230m2, loại đất nghĩa địa, thuộc thửa 769, tờ bản đồ số 6, tọa lạc tại Khóm 2, phường 8, thành phố TV và được UBND tỉnh TV cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 30/8/2002. Ông H. yêu cầu Tịnh xá NT phải tháo dỡ, di dời những tài sản gắn liền với diện tích đất 230m2 để trả lại cho gia đình ông và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho Tịnh xá NT. Người đại diện theo pháp luật của Tịnh xá NT không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn H.

Tại bản án số 23/2017/DS-ST ngày 16/10/2017, TAND tỉnh TV tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn H., buộc Tịnh xá NT, đại diện là bà Trầm Thị H. giao lại cho ông Trần Văn H. đại diện cho thân nhân 5 ngôi mộ diện tích 69,29m2 nằm trong tổng diện tích 230m2 thuộc thửa 769, loại đất nghĩa địa, tờ bản đồ số 6, tọa lạc tại Khóm 2, phường 8, thành phố TV, tỉnh TV, không chấp nhận yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho phía Tịnh xá NT do yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn H. không có cơ sở xem xét.

Xét thấy, bản án sơ thẩm xác định các mộ trên diện tích 69,29m2 thuộc thửa 769 là mộ của các ông, bà: Nguyễn Văn D.(mộ đá); Lữ Thị H. (mộ đá), Hồ Thị H.(mộ đất), Lữ Thị V. (mộ đất), Lữ Văn L. (mộ đất). Tại các đơn xin xác nhận thì mộ bà H. là của gia đình bà Huỳnh Thị Kế N. (bà N.là con bà H.), mộ bà V., ông L., bà H. là của gia đình bên chồng bà Trần Thị D., mộ ông D. là của gia đình ông Nguyễn Văn Ch. (ông D. là cha ông Ch.). Tuy nhiên, cấp sơ thẩm không đưa bà N., gia đình bà D. và ông Ch. vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là vi phạm nghiêm trọng tố tụng. Mặt khác, ông H. cho rằng phần đất tranh chấp là của ông, bà ông H. để lại với mục đích làm nơi chôn cất những người trong thân tộc. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Ch. trình bày ông bà ông H. là ông, bà của 100 người hiện nay nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập chứng cứ xác định ông, bà ông H. là ai, xác định những người thừa kế của họ để đưa họ vào tham gia tố tụng và phải làm rõ căn cứ nào để xác định ông H. là đại diện thân tộc để xác định tư cách khởi kiện của ông.

Ngoài ra, Quyết định của bản án sơ thẩm tuyên buộc bị đơn giao lại cho ông H.  đại diện cho thân nhân 5 ngôi mộ diện tích 69,29m2 thuộc thửa 769, đất có vị trí là phần A kèm theo Kết quả khảo sát, đo đạc đất tranh chấp thửa 769 và 770 tờ bản đồ số 6 đề ngày 26/4/2016 do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh TV lập. Tuy nhiên, theo Sơ đồ khu đất tranh chấp do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh TV lập ngày 26/4/2016 kèm theo bản án thì phần lô ký hiệu A chỉ có diện tích 2,3m2 và không thể hiện kích thước tứ cận như trong Quyết định của bản án sơ thẩm nên không thể thi hành án được.

Vấn đề cần rút kinh nghiệm: Khi giải quyết vụ án, phải xác định đầy đủ những người có liên quản để đưa họ vào tham gia tố tụng, xem xét, đánh giá toàn diện các chứng cứ để tuyên án cho phù hợp.

Đối với Quyết định đình chỉ bị hủy

*Vụ án “Tranh chấp hủy hợp đồng tặng cho nhà ở” giữa nguyên đơn ông Trần Minh Nh. và bị đơn bà Trần Thị Tuyết Ng.

Tại Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm số 272/2015/QĐST-ST ngày 01/4/2015, TAND Thành phố Hồ Chí Minh đã căn cứ các Điều 164, Điều 165, điểm d khoản 1 Điều 168, khoản 2 Điều 169, điểm i khoản 1 Điều 192, khoản 3 Điều 193, Điều 194 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự về “Tranh chấp hủy hợp đồng tặng cho nhà ở” giữa nguyên đơn ông Trần Minh Nh. và bị đơn bà Trần Thị Tuyết Ng.

Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ giải quyết vụ án với lý do nguyên đơn ông Trần Minh Nh. không cung cấp được địa chỉ của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Trần Minh Ngu. nên không đủ điều kiện khởi kiện. Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án thể hiện bà Nguyệt đã làm thủ tục ủy quyền cho bà Phạm Ngọc Tr. được toàn quyền đối với phần của bà Ng. trong căn nhà số 76 Lê Đại Hành, phường 7, quận 11, thành phố H. nên Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ lý do nguyên đơn không cung cấp được địa chỉ của bà Trần Thị Minh Nguyệt là không đủ căn cứ.

Vấn đề cần rút kinh nghiệm: Khi xem xét giải quyết tranh chấp, đương sự không cung cấp được địa chỉ người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, nhưng họ đã có ủy quyền cho người khác được thay mình toàn quyền quyết định... không phải là trường hợp không đủ điều kiện khởi kiện theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011).

Các vụ án có kháng nghị được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận

*Kháng nghị số 200/QĐKNPT-DS ngày 29/10/2013 về vụ án “Tranh chấp di sản thừa kế” giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Anh B.(đã chết) với bị đơn là ông Nguyễn An Th. (đã chết)

Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Anh B. là bà Nguyễn Minh H., ông Nguyễn Anh B., ông Nguyễn Anh Đ. Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn An Th. là bà Nguyễn Thị Q., bà Nguyễn Thị Th., bà Nguyễn Thị H., bà Nguyễn Thị Ng., ông Nguyễn An Th., ông Nguyễn An Tr., bà Nguyễn Thị Tr.

Nội dung vụ án: Nguyên đơn yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật đối với các thửa đất số 77, 78, 79, 80, 81, 562 và 565 tờ bản đố số 62, số 10 và số 12, tọa lạc tại khu phố Đông Tân, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh BD và ngôi nhà ngói gắn liền trên thửa đất số 79 do ông Nguyễn An Th. và các con là Nguyễn Thị Ng., Nguyễn An Th. và Nguyễn Thị Th. đứng trên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng. Riêng thửa số 565, vào tháng 10/2011, ông Th. lập hợp đồng tặng cho con là Nguyễn Thị Ng. Sau đó, bà Ng. lập hợp đồng chuyển nhượng cho ông Huỳnh Thanh T. và ông Phan Thanh T. 2 ông đã được UBND thị xã Dĩ An cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 29/11/2011. Bị đơn (sau này là những người thừa kế của bị đơn) không đồng ý chia thừa kế theo yêu cầu của các nguyên đơn.

Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn, ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn An Th., đại diện là bà Nguyễn Thị Ng. về việc để lại căn nhà diện tích 209,7m2 tọa lạc tại khu phố Đông Tân, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh BD làm nhà thờ hương hỏa... Ngày 29/10/2013, VKS kháng nghị đề nghị hủy bản án số 12/2013/DS-ST ngày 16/10/2013 của TAND tỉnh BD do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và việc thu thập chứng cứ chưa đầy đủ. Tòa án cấp phúc thẩm đã chấp nhận kháng nghị của VKS hủy bản án sơ thẩm do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, chưa xác minh, làm rõ diễn biến cụ thể quá trình quản lý, sử dụng đất của các đương sự.

Vấn đề cần rút kinh nghiệm trong vụ án này: Các thửa đất mà nguyên đơn tranh chấp được UBND cấp Giấy chứng nhận cho hộ gia đình ông Nguyễn An Th., bà Nguyễn Thị Ng., ông Nguyễn An Th. nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa đầy đủ các thành viên trong hộ gia đình ông Th., bà Ng., ông Th. tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót. Quá trình giải quyết vụ án ở Tòa án cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm, các đương sự đều thừa nhận các thửa đất nêu trên đều có nguồn gốc của ông bà để lại. Đến đời cha mẹ các đương sự là cụ B., cụ Gi. sử dụng, ngôi nhà thì làm nơi thờ cúng. Sau khi cụ B. chết (năm 1961), cụ Gi. chết (năm 1980) thì ông Th. mới kê khai và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng. Năm 2000, phát sinh tranh chấp thừa kế. Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ diến biến cụ thể quá trình quản lý, sử dụng đất từ khi cụ B., cụ Gi. chết và đến khi ông Th.được cấp Giấy chứng nhận để xác định đất có còn là di sản của cụ B., cụ Gi. không. Toà án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào cụ B., cụ Gi. không có giấy tờ gì về quyền sử dụng đất để xác định đất tranh chấp không phải là di sản thừa kế do cụ B., cụ Gi. để lại la chưa đảm bảo căn cứ. VKS địa phương kịp thời phát hiện những vu phạm trên, ban hành kháng nghị phúc thẩm, được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng nghị, hủy bản án sơ thẩm. Nhận thấy, Kiểm sát viên được phân công tham gia xét xử đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, cần phải nhân rộng điển hình để các VKS địa phương khác rút kinh nghiệm.

*Kháng nghị số 07/QĐKNPT ngày 25/1/2016 về vụ án “Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà” giữa nguyên đơn bà Trần Sơn Kim L. và bị đơn bà Trần Thị Bích Ph.

Nội dung vụ án: Căn nhà số 492/4/7 (số cũ 498/8/7) Lê Quang Định, phường 11, quận BT là của nguyên đơn mua của ông Trần Sơn Tây Casimir Th., do bà Kim L. là người nước ngoài (quốc tịch Pháp) chưa đủ điều kiện đứng tên quyền sở hữu nhà ở gắn liền với đất đối với căn nhà nêu trên, nên bà đã nhờ bà Ph. đứng tên dùm cho bà về mặt pháp lý đối với căn nhà 492/4/7 Lê Quang Định. Ngày 08/4/2010, UBND quận BT cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho bà Ph. Sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng, bà Ph. đã dùng giấy tờ căn nhà 492/4/7 Lê Quang Định đem đi thế chấp vay tiền với lãi suất cao thông qua hợp đồng mua bán giả tạo với bà Thúy H. Nay, nguyên đơn yêu cầu Tòa án tuyên hủy hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở giữa bà Ph. và bà Thúy H., yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất mang tên bà Thúy H., yêu cầu công nhận căn nhà 492/4/7 Lê Quang Định là của nguyên đơn.

Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2016/DS-ST ngày 08/1/2016 của TAND thành phố H quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xác định căn nhà 492/4/7 Lê Quang Định thuộc quyền sở hữu của nguyên đơn, không chấp nhận yêu cầu phản bác của bà Thúy H., tuyên bố hợp đồng mua bán căn nhà số 492/8/7 Lê Quang Định giữa bà Ph. và bà Thúy H. ngày 16/8/2012 đã được công chứng là vô hiệu, buộc bà Ph. có trách nhiệm thanh toán cho bà Thúy H. số tiền 4.166.075.000 đồng, hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu đất ở do UBND quận BT cấp ngày 16/1/2013 cho bà Thúy H. Ngày 25/1/2016, Viện trưởng VKS địa phương kháng nghị đề nghị hủy bản án số 32/2016/DS-ST ngày 08/1/2016 của TAND thành phố H do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Vấn đề cần rút kinh nghiệm trong vụ án này: Nguyên đơn khởi kiện, trong đó, có yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BM570390 ngày 16/1/2013 của UBND quận BT cấp cho bà Thúy H., nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa UBND quận BT vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là xác định thiếu đương sự của vụ án, vi phạm quy định tại Điều 32a* Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Nguyên đơn yêu cầu hủy hợp đồng mua bán căn nhà số 492/4/7 Lê Quang Định giữa bà Ph. và bà Thúy H., Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là giải quyết trong phạm vi khởi kiện, nhưng các bên đương sự không ai yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm lại buộc bà Ph. thanh toán trả lại cho bà Thúy H. số tiền 4.166.075.000 đồng là vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự, vi phạm quy định Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Thanh Hằng

(Tổng hợp)

 

Tìm kiếm